Hỏi: Tôi được nghe nói, khi Luật Đất đai mới có hiệu lực, các trường hợp người dân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ pháp lý thì đều được cấp giấy chứng nhận. Gia đình tôi có thửa đất đang sử dụng, có nhà ở, được hình thành từ năm 2001 thì việc cấp sổ có thuận lợi không và được thực hiện thế nào?
Phan Cao (Vạn Ninh)
Trả lời: Luật Đất đai (được Quốc hội thông qua ngày 18-1-2024, có hiệu lực từ ngày 1-8-2024), có quy định các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất mà khi người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có được thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Trường hợp người sử dụng đất không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định và không thuộc trường hợp có vi phạm pháp luật đất đai và đất được giao không đúng thẩm quyền thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất có sự phân biệt trường hợp sử dụng đất về thời gian, mục đích sử dụng, diện tích… và chế độ tài chính khi cấp giấy chứng nhận. Trong đó, về các mốc thời gian sử dụng đất được quy định: Trước ngày 18 tháng 12 năm 1980; từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 1 tháng 7 năm 2014.
Trường hợp của gia đình bạn, bạn cần tham khảo quy định của Luật Đất đai tại khoản 3 Điều 138, có nội dung:
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 1 tháng 7 năm 2014, nay được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất như sau:
a) Đối với thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích thửa đất bằng hoặc lớn hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản 2 Điều 196 của Luật này thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; trường hợp diện tích đất đã xây dựng nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống đó;
b) Đối với thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản 2 Điều 196 của Luật này thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở;
c) Đối với thửa đất có sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, thương mại, dịch vụ thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này;
d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại điểm a và điểm c khoản này thì được xác định theo hiện trạng sử dụng đất.
Trường hợp hiện trạng sử dụng là đất phi nông nghiệp không phải là đất ở thì được công nhận theo quy định tại điểm c khoản này.
Trường hợp hiện trạng sử dụng là đất nông nghiệp thì được công nhận theo hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; nếu người sử dụng đất có nhu cầu công nhận vào mục đích đất phi nông nghiệp mà phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch nông thôn thì được công nhận vào mục đích đó và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
đ) Người sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất quy định tại khoản này thì phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
Luật sư NGUYỄN THIỆN HÙNG
Xem bài viết gốc tại đây